Từ xưởng thủ công đến nhà máy công nghiệp trá hình
Theo Đại tá Nguyễn Minh Tuấn - Phó Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an (C01), lực lượng chức năng hiện đang điều tra 6 vụ án buôn bán, sản xuất hàng giả có tổng giá trị gần 10.000 tỷ đồng. Nếu trước đây, các hoạt động này diễn ra manh mún tại các xưởng nhỏ, thì nay, các đối tượng đã thành lập doanh nghiệp hợp pháp, xây dựng nhà xưởng rộng hàng nghìn mét vuông, lắp đặt dây chuyền sản xuất hiện đại, có kho bãi, xe vận tải và vận hành như một doanh nghiệp bình thường.
Toàn bộ quy trình – từ đóng gói, dán nhãn, marketing đến phân phối – đều được tổ chức bài bản, khiến hoạt động kiểm tra truyền thống không còn hiệu quả. Đáng nói, các đối tượng còn tận dụng lỗ hổng từ Luật An toàn thực phẩm, cụ thể là cơ chế “tự công bố tiêu chuẩn chất lượng”, để hợp thức hóa sản phẩm giả, đưa ra thị trường mà không cần trải qua bước kiểm định ban đầu.
Sau khi có bộ hồ sơ hợp lệ, hàng hóa kém chất lượng hoặc hàng giả vẫn có thể dễ dàng lưu hành. Với vỏ bọc pháp nhân, các đối tượng mở rộng giao dịch, ký kết hợp đồng phân phối, tiếp cận cả thị trường truyền thống lẫn thương mại điện tử mà rất khó bị phát hiện.
Từ thực tiễn này, C01 kiến nghị cần gấp rút sửa đổi pháp luật, đặc biệt với nhóm sản phẩm rủi ro cao như thực phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng. Các đề xuất bao gồm khôi phục kiểm định trước khi lưu hành, tăng hình phạt lên mức đủ răn đe, thiết lập hệ thống chia sẻ dữ liệu liên ngành để kịp thời phát hiện sai phạm.
Luật pháp hiện hành chưa đủ sức ngăn chặn
Theo luật sư Nguyễn Đức Biên – Giám đốc Công ty Luật TNHH Đại La, vấn đề không chỉ nằm ở lỗ hổng “tự công bố chất lượng”, mà còn ở việc khó chứng minh vi phạm khi đối tượng đã khoác lên mình hình hài của doanh nghiệp hợp pháp.
Việc xác định sản phẩm là “giả” đòi hỏi truy vết toàn bộ chuỗi cung ứng – từ nguyên liệu đầu vào, quy trình sản xuất đến phân phối. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa yêu cầu doanh nghiệp phải công khai hoặc lưu trữ đầy đủ các dữ liệu này. Chính khoảng trống đó khiến công tác điều tra gặp khó khăn, nhiều vụ việc rơi vào bế tắc kéo dài.
Luật sư Biên cho rằng cần bổ sung quy định về truy xuất nguồn gốc nguyên liệu và đánh giá năng lực sản xuất ngay từ khâu cấp phép. Cùng với đó, cần cho phép cơ quan điều tra được đình chỉ lưu hành sản phẩm nghi vấn ngay khi phát hiện dấu hiệu bất thường, thay vì chờ đợi kết quả hậu kiểm.
Thương mại điện tử – mặt trận mới của hàng giả
Luật sư Lê Thị Nhung – Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts – nhận định nguy cơ hàng giả còn lớn hơn trên môi trường số. Các sàn thương mại điện tử, đặc biệt là xuyên biên giới, đang trở thành nơi tiêu thụ hàng giả phổ biến khi thông tin người bán và nguồn gốc hàng hóa khó truy vết. Trong khi đó, trách nhiệm của các nền tảng tại Việt Nam hiện vẫn chưa được quy định rõ ràng.
Bà đề xuất bắt buộc áp dụng công nghệ pháp lý như mã định danh truy xuất nguồn gốc đối với sản phẩm rủi ro cao. Các nền tảng thương mại điện tử chỉ nên hiển thị và bán sản phẩm đã được xác thực thông tin. Dữ liệu này cần được kết nối với hệ thống quản lý nhà nước để giám sát theo thời gian thực, tạo ra một “hàng rào pháp lý” hiệu quả trong kiểm soát hàng giả.
Cảnh báo về mô hình tội phạm mới
Các chuyên gia pháp lý đồng thuận rằng cảnh báo từ C01 là tín hiệu cho thấy sự cấp thiết phải thay đổi. Nếu không nhanh chóng vá lỗ hổng, từ “tự công bố chất lượng” đến quản lý môi trường số, mô hình tội phạm công nghiệp hóa trong lĩnh vực hàng giả có thể trở thành “chuẩn mực mới”.
Khi đó, hàng giả không chỉ gây hại cho sức khỏe cộng đồng mà còn xói mòn niềm tin vào thị trường và hệ thống pháp lý – nền tảng quan trọng cho môi trường kinh doanh bền vững tại Việt Nam.
PH